Điều trị Ung_thư_dạ_dày

Cũng như các loại ung thư khác, điều trị cần phù hợp với từng bệnh nhân và phụ thuộc vào kích cỡ, vị trí và mức độ lan tỏa của khối u, giai đoạn của bệnh, và tình trạng sức khỏe chung của bệnh nhân. Ung thư dạ dày thường khó chữa trừ khi được phát hiện sớm (trước khi lan tỏa). Đáng tiếc là ung thư dạ dày giai đoạn sớm thường có rất ít triệu chứng, khi được chẩn đoán thì thường bệnh đã nặng. Điều trị ung thư dạ dày bao gồm phẫu thuật, hóa trị liệu, hoặc xạ trị. Các phương pháp điều trị mới như điều trị sinh học và cải tiến các biện pháp hiện nay đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng.

Phẫu thuật

Phẫu thuật là phương pháp điều trị phổ biến nhất và là hi vọng duy nhất chữa khỏi ung thư dạ dày. Bác sĩ sẽ cắt bỏ một phần hoặc toàn bộ dạ dày, cũng như các hạch bạch huyết xung quanh, theo nguyên tắc cơ bản là loại bỏ tất cả các mô ung thư và vùng lân cận. Tùy vào mức độ xâm lấn và vị trí của khối u, có thể cần cắt bỏ một phần ruột non và tụy. Những khối u ở nửa dưới của dạ dày cần đến phương pháp Billroth I hoặc Billroth II. Phẫu thuật nội soi cắt bỏ niêm mạc (tiếng Anh là Endoscopic mucosal resection - EMR) được dùng để điều trị ung thư dạ dày giai đoạn sớm (khối u mới chỉ nằm ở niêm mạc) và đã được sử dụng đầu tiên ở Nhật Bản, và cũng có ở một số nơi ở Mỹ. Phương pháp này loại bỏ khối u cùng với lớp niêm mạc bao phủ mặt trong của dạ dày bằng một vòng dây điện nhờ nội soi. Ưu điểm của nó là nhỏ hơn nhiều so với phẫu thuật cắt bỏ dạ dày. Phẫu thuật nội soi cắt bỏ lớp dưới niêm mạc (tiếng Anh là Endoscopic submucosal dissection - ESD) là một phương pháp tương tự được sử dụng đầu tiên ở Nhật Bản, trong đó cắt bỏ một vùng lớn niêm mạc. Nếu khi kiểm tra mẫu bệnh phẩm được cắt ra thấy chưa cắt hết hoặc đã có sự xâm lấn sâu của ung thư thì bệnh nhân cần làm phẫu thuật cắt bỏ dạ dày thực sự.

Phương pháp phẫu thuật hiện nay có tỉ lệ chữa trị được ít hơn 40% các ca, và nếu trong những trường hợp đã bị di căn, nó chỉ có tác dụng điều trị triệu chứng.

Hóa trị liệu

Sử dụng hóa trị liệu trong điều trị ung thư dạ dày hiện chưa có tiêu chuẩn điều trị. Đáng tiếc là ung thư dạ dày không đáp ứng với các loại hóa chất cho đến mãi gần đây, và trước đây thì được dùng trong điều trị triệu chứng để giảm kích cỡ khối u và tăng thời gian sống sót cho bệnh nhân. Một số hóa chất sử dụng trong điều trị ung thư dạ dày bao gồm: 5-FU (fluorouracil), BCNU (carmustine), methyl-CCNU (Semustine), và doxorubicin (Adriamycin), cũng như Mitomycin C, và gần đây là cisplatintaxotere với những liều kết hợp khác nhau. Tác dụng tương đối của các hóa chất này, độc lập hay kết hợp, hiện chưa được xác định rõ ràng.[14] Các nhà khoa học đang tìm hiểu tác dụng của hóa trị liệu trước khi phẫu thuật để làm nhỏ khối u, hoặc là phương pháp bổ sung sau khi phẫu thuật để phá hủy nốt những tế bào ung thư còn lại. Kết hợp giữa hóa trị liệu và xạ trị cũng đang được nghiên cứu. Các bác sĩ đang thử nghiệm phương pháp sử dụng hóa chất chống ung thư đưa thẳng vào ổ bụng (truyền hóa chất ấm trong ổ bụng, tiếng Anh là intraperitoneal hyperthermic chemoperfusion). Hóa trị liệu cũng đang được nghiên cứu trong điều trị ung thư đã lan tỏa, và trong việc giảm triệu chứng bệnh. Tác dụng phụ của hóa trị liệu phụ thuộc chủ yếu vào loại hóa chất được sử dụng.

Xạ trị

Xạ trị là phương pháp sử dụng các tia có năng lượng cao để phá hủy tế bào ung thư và ngăn chúng sinh sản. Thường phương pháp này được sử dụng kết hợp với phẫu thuật và hóa trị liệu, hoặc chỉ dùng với hóa trị liệu đối với những bệnh nhân không thể sử dụng phương pháp phẫu thuật. Xạ trị có thể sử dụng để giảm dau hoặc ngăn sự phát triển của khối u trong điều trị triệu chứng cho các bệnh không chữa được.

Phương pháp kết hợp

Trong khi những nghiên cứu trước đây về phương pháp kết hợp (bao gồm cả phẫu thuật, hóa trị liệu và xạ trị) cho những kết quả khác nhau, nghiên cứu của nhóm Intergroup 0116 (SWOG 9008) [15] cho thấy tác dụng của sự kết hợp hóa trị liệu và xạ trị đối với các bệnh nhân chưa bị di căn và đã loại bỏ toàn bộ ung thư dạ dày. Bệnh nhân sau khi phẫu thuật được phân chia ngẫu nhiên vào hai nhóm: nhóm tiêu chuẩn để theo dõi, và nhóm nghiên cứu có sử dụng sự kết hợp giữa hóa trị liệu và xạ trị. Những bệnh nhân ở nhóm nghiên cứu sống trung bình được 36 tháng, so với nhóm tiêu chuẩn là 27 tháng.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ung_thư_dạ_dày http://www.inca.gov.br/rbc/n_46/v03/english/articl... http://www.diseasesdatabase.com/ddb12445.htm http://www.emedicine.com/med/topic845.htm http://www.expertopin.com/doi/abs/10.1517/14656566... http://www.icd9data.com/getICD9Code.ashx?icd9=151 http://www.merck.com/mmpe/sec02/ch021/ch021d.html http://www.reference-global.com/doi/abs/10.1515/CC... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1735838 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/10097259 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/10936894